Việt Nam đạt được nhiều thành tựu y khoa, mới nhất là ca thông tim bào thai do ê-kíp bác sĩ Bệnh viện Từ Dũ và Bệnh viện Nhi Đồng 1 thực hiện trong tuần rồi.
Đó là kết quả của sự nỗ lực lớn, không chỉ ở chuyên môn mà còn ở tinh thần dấn thân của đội ngũ y - bác sĩ.
Tuy nhiên, điều mà có lẽ rất nhiều người dân mong mỏi là những liệu pháp, liệu trình mới, các kỹ thuật cao ấy cần được triển khai rộng hơn, nhanh hơn và với chi phí hợp lý hơn, để nhiều người dân có thể tiếp cận. Thực tế là hiện nay, đa số người dân, nhất là người nghèo, người dân ở vùng sâu, vùng xa chỉ được tiếp cận dịch vụ y tế cơ bản.
Vấn đề cốt lõi là người bệnh không chỉ cần sự tiến bộ trong y học, mà còn cần một hệ thống y tế đủ năng lực để đưa tiến bộ ấy đến gần hơn với số đông. Đã đến lúc chúng ta cần đầu tư nghiêm túc hơn cho hệ thống y học cộng đồng, tập trung phát triển mô hình bác sĩ gia đình, quản lý y tế từ xa (online), trung tâm y tế cộng đồng, các trung tâm kiểm soát bệnh tật (CDC) khu vực... Không chỉ là đầu tư cơ sở vật chất, mà còn phải đẩy mạnh đào tạo, tập huấn cho cộng đồng, xây dựng hệ thống quản trị rủi ro y tế từ cấp địa phương trở lên. Có như vậy, chúng ta mới có thể ứng phó tốt hơn với các dịch bệnh, như COVID-19, trong tương lai cũng như tăng cường cơ hội tiếp cận các thành tựu y khoa mang lại.
Trên hết, việc mở rộng cơ hội tiếp cận y tế hiện đại không thể chỉ trông đợi vào các bệnh viện lớn hay các dự án nghiên cứu mà chúng ta cần xây dựng một hệ sinh thái y tế - khoa học - công nghệ để mở rộng cơ hội tiếp cận cho người dân.
Ở các quốc gia phát triển, trong hệ sinh thái đó, khoa học sức khỏe (Health Science) ngày càng gắn kết chặt chẽ với khoa học sự sống (Life Science). Chúng ta đã bắt đầu nghe đến các liệu pháp gene trong điều trị ung thư, các kỹ thuật y học chính xác dựa trên hệ gene - tất cả đều xuất phát từ thành tựu của công nghệ sinh học.
Theo quy luật cung - cầu, khi có nhu cầu thực sự, các lĩnh vực này tại Việt Nam cũng sẽ buộc phải kết hợp và phát triển. Nếu có thể chủ động kết nối, tạo nền tảng từ sớm, thì ngành y nước ta sẽ rút ngắn được khoảng cách và đón đầu được xu hướng mới.
Cuối cùng để có một hệ sinh thái y tế - khoa học hiện đại, vai trò của nhà nước là vô cùng quan trọng. Chính quyền không thể đứng ngoài và trông chờ các bệnh viện, viện nghiên cứu hay doanh nghiệp tự kết nối với nhau. Cần có chính sách chủ động kiến tạo hệ sinh thái, nơi các trường đại học, viện nghiên cứu, bệnh viện, doanh nghiệp y tế và công nghệ cùng liên kết, không chỉ để chữa bệnh, mà còn để nâng cao chất lượng sống và đóng góp cho phát triển kinh tế.
Ngành y Việt Nam có nhiều tiềm năng, có nhiều người giỏi nhưng để những điều đó trở thành sức mạnh hệ thống, thành năng lực quốc gia thì chúng ta cần đầu tư đúng chỗ, cần cơ chế vận hành hiệu quả và cần cả một tầm nhìn phát triển dài hạn.
Bình luận (0)